LSÂN 6 - Thời kì Tiền Cổ điển và Cổ điển (1730-1820)

LSÂN 6 - Thời kì Tiền Cổ điển và Cổ điển (1730-1820)

Tổng hợp

Từ khoảng năm 1720 những tiến triển mới một lần nữa lại bắt đầu làm suy yếu phong cách âm nhạc đang thịnh hành. Các nhạc sĩ trẻ thấy rằng sự đối âm thời kỳ Baroque quá cứng nhắc và lí trí, họ ưa thích một sự biểu lộ âm nhạc tự nhiên, ít gò bó hơn. Thêm vào đó, tư tưởng cuối thời Baroque về việc hình thành một đặc tính cảm xúc độc đáo và duy trì nó trong suốt một tác phẩm dường như đang thui chột đi đối với các nhạc sĩ trẻ này. Giai đoạn cổ điển nằm giữa Âm nhạc thời kỳ Baroque và Âm nhạc thời kỳ Lãng mạn.


Nhà soạn nhạc tiêu biểu thời kỳ Cổ điển, L.v. Beethoven bên cây đàn piano. Tranh của Schloesser

Chủ nghĩa cổ điển

Vào giữa thế kỷ 18, châu Âu bắt đầu hướng tới một phong cách mới trong kiến trúc, văn học và nghệ thuật, thường được gọi là Cổ Điển. Trong khi vẫn liên kết chặt chẽ với văn hóa và chính trị với hình thức và sự nhấn mạnh về trình tự, hệ thống phân cấp, phong cách mới.

Phong cách này cũng được phát triển bởi những thay đổi trong trật tự kinh tế và cấu trúc xã hội. Vào thế kỷ 18, giới quý tộc đã trở thành những người bảo trợ chính của nhạc cụ và phát triển Opera. Điều này dẫn đến những thay đổi trong âm nhạc được thực hiện, quan trọng nhất trong số đó là sự thay đổi tiêu chuẩn các nhóm nhạc cụ.

Những thay đổi trong tình hình kinh tế cũng có tác động làm thay đổi sự cân bằng của lượng và chất lượng của các nhạc sĩ. Kết cấu đa âm không còn là trọng tâm chính của âm nhạc mà thay vào đó là một giai điệu duy nhất với phần đệm đi kèm, chú trọng nhiều hơn vào giai điệu. Việc đơn giản hóa các nhạc cụ được xem trọng, sử dụng các nhịp điệu đặc trưng cho các mục đích khác nhau và quan trọng hơn là việc thiết lập và thống nhất các giai điệu.

Các phong cách Tiền Cổ điển

Sự phản ứng lại phong cách Baroque này có những hình thức khác nhau ở Pháp, Đức và Ý.

Ở Pháp một trào lưu mới thường được gọi là rococo hay style galant (tiếng Pháp có nghĩa là “phong cách nhã nhặn”), có đại diện là nhà soạn nhạc người Pháp François Couperin. Phong cách này nhấn mạnh kết cấu cùng một chủ điệu, nghĩa là giai điệu cùng với phần đệm có sự hài hoà âm thanh. Giai điệu được điểm tô bằng những nét hoa mĩ chẳng hạn như những tiếng rung (trill) ngắn. Thay cho một dòng nhạc không đứt quãng như ở thể loại Fugue thời Baroque, những nhà soạn nhạc người Pháp đã viết ra những bản nhạc kết hợp những đoản khúc riêng biệt, giống như trong nhạc khiêu vũ. Sáng tác đặc trưng ở đây ngắn và mang tính chương trình, có nghĩa là nó miêu tả sinh động những hình ảnh phi tính nhạc chẳng hạn như những con chim hay những chiếc cối xay gió. Đàn Harpsichord (clavico) là loại nhạc cụ phổ biến nhất giai đoạn này và rất nhiều suite (tổ khúc) được viết cho cây đàn này.

Ở miền Bắc nước Đức, phong cách tiền cổ điển được gọi là “Empfindsamer Stil” (tiếng Đức-nghĩa là “phong cách nhạy cảm”). Nó chứa đựng một phạm vi những cảm xúc trái ngược rộng hơn hơn phong cách Galant-thường có xu hướng tao nhã và vui vẻ một cách đơn thuần. Các nhà soạn người Đức luôn viết các tác phẩm dài hơn so với các tác phẩm của người Pháp và sử dụng nhiều kỹ thuật âm nhạc thuần túy để thống nhất các tác phẩm của mình. Họ không dựa vào các hình tượng phi âm nhạc như người Pháp đã làm. Người Đức, do vậy, đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của các hình thức trừu tượng, như hình thức sonata, và trong sự phát triển của thể loại lớn như concerto, sonata và symphony.

Ở Italy, phong cách tiền cổ điển không có một cái tên dành riêng cho nó, có lẽ bởi vì nó không cắt đứt một cách đột ngột với âm nhạc thời ngay trước đó. Tuy nhiên các nhà soạn nhạc Italy cũng đã góp phần rất lớn cho sự phát triển của các thể loại mới, đặc biệt là symphony. Opera overture của người Ý thường được gọi là sinfonia, thường không có sự kết nối về âm nhạc hay tính kịch với chính vở opera mà nó giới thiệu. Thỉnh thoảng các nhạc công Italy chơi các Opera overture trong các buổi hoà nhạc và các nhà soạn nhạc rốt cuộc đã bắt đầu viết các bản khí nhạc độc lập theo quy mô Overture. Quy mô này gồm 3 chương, chương đầu và cuối với tốc độ nhanh và chương giữa với tốc độ chậm. Trong mỗi chương sự phát triển của các ý tưởng âm nhạc thường theo một khuôn mẫu mà cuối cùng phát triển thành hình thức sonata.

Thời kỳ Cổ điển

Các thể loại khí nhạc

Các nhà soạn nhạc người Ý đã từng hình thành ý tưởng viết một sinfonia khí nhạc độc lập, thế rồi Người Đức đã tiếp tục ý tưởng và áp dụng tính khéo léo nhiều trí tuệ vào đó. Các trung tâm hoạt động chính của người Đức là ở Berlin, Mannheim và Vienna. Như là kết quả của các hoạt động trên quy mô lớn, các hình thức, thể loại và cách thức truyền đạt âm nhạc khác nhau đã được sinh ra. Sự khác biệt phát sinh giữa phương tiện truyền đạt của âm nhạc thính phòng (chamber music), trong đó mỗi nhạc cụ sẽ chơi phần của mình, và phương tiện truyền đạt của âm nhạc giao hưởng (symphonic music), trong đó nhiều nhạc cụ cùng chơi một phần. Trong phạm trù âm nhạc thính phòng các nhà soạn nhạc bắt đầu phân biệt một số phương tiện truyền đạt như string quartet (tứ tấu đàn dây), string trio (tam tấu đàn dây) và keyboard sonata (sonata đàn phím) với phần đệm của violin. Với các thể loại cho dàn nhạc, các nhà soạn nhạc không chỉ viết các symphony mà còn cả các concerto cho nhạc cụ solo cùng dàn nhạc.

Symphony, sonata, concerto và string quartet đều theo những đề cương có hình thức tương tự. Chúng đều có ba hoặc bốn chương, một hoặc nhiều hơn trong số các chương đó ở hình thức sonata. Được việc sử dụng khóa nhạc phức tạp, đã phát triển đến cuối thời Baroque, tạo cho khả năng, hình thức sonata đã hồi sinh vào giữa quãng thế kỷ 18 và khai thác được mạng lưới phức tạp các quan hệ hoà âm giữa các âm và hợp âm riêng biệt trong cùng một điệu hay giữa các điệu khác nhau. Hình thức sonata được dựa trên một chương rời bỏ rồi lại quay lại điệu chính. Thêm vào đó là sự trình bày những chủ đề đối lập tại đầu mỗi chương và phát triển một hay tất cả các chủ đề một cách công phu hay riêng rẽ về sau.


Nhà soạn nhạc Franz Schubert trong một buổi biểu diễn.

Giai đoạn phát triển đỉnh điểm của âm nhạc thế kỷ 18 là vào cuối thế kỷ này khi một nhóm các nhà soạn nhạc được biết đến như “Trường phái cổ điển Vienna”, mà nổi bật nhất có Joseph Haydn (1732-1809), Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791), Ludwig van Beethoven (1770-1827). Haydn là nhà cải cách vĩ đại, người đã thiết lập nên các hình thức như tứ tấu đàn dây và giao hưởng nhưng ngay lập tức uốn bẻ chúng theo các cách thức kì quặc. Mozart là nhà soạn nhạc cổ điển thăng bằng và “cổ điển” nhất, cân bằng được chất hài và chất bi trên một lưỡi dao trong các opera và concerto của mình. Beethoven là nhà soạn nhạc Anh hùng đầu tiên vì dù bị điếc ở nửa chừng sự nghiệp nhưng đã đưa giao hưởng lên một sân khấu nơi mà những lực lượng lớn lao của vũ trụ được tham chiến và giật tung chất bi thương và khêu gợi từ một nhạc cụ hoàn toàn mới – đàn piano. Vào cuối thời kỳ Cổ điển nhà soạn nhạc Franz Schubert (1797-1828), người Vienna cũng phát triển thể loại giao hưởng và tứ tấu đàn dây theo một phong cách riêng.

Opera cải cách và phát triển

Opera thế kỷ 18 cũng đã trải qua rất nhiều thay đổi. Trong thời kỳ Cổ điển, opera chủ yếu phát triển tại Đức, Áo và cả ở Pháp với hai thể loại chính: opera seria (opera nghiêm túc) và opera buffa (opera hài hước). Còn tại Ý - cái nôi sinh thành, nghệ thuật opera rơi vào giai đoạn khủng hoảng dù các vở opera bằng tiếng Ý vẫn được sáng tác đều đặn, nhưng nó cũng đã mất đi rất nhiều đặc tính nguyên thuỷ như là một vở kịch với âm nhạc. Opera seria có cốt truyện lấy từ đề tài lịch sử hoặc thần thoại với âm nhạc mang tính chất trang trọng và là thể loại opera rất phổ biến trong thời kỳ Baroque. Đến đầu thế kỉ 18, kết cấu của opera seria trở nên rất nhàm chán vì chỉ gồm các aria và reritative luân phiên nhau. Sân khấu opera lúc đó là nơi để các ca sĩ giọng nam hoạn (castrato) khoe giọng mà không thèm đếm xỉa đến nội dung cũng như yêu cầu của tác giả. Trong bối cảnh đó, opera buffa lên ngôi và trở thành phong cách opera chủ đạo của thời kỳ Cổ điển. Opera buffa dí dỏm, nhẹ nhàng với những nội dung lấy từ chính cuộc sống thường nhật của người dân, châm chọc những người thuộc tầng lớp trên nên dễ được quần chúng đón nhận. Về mặt âm nhạc, opera buffa sử dụng nhiều các đoạn song ca (duo) và coi trọng giọng nam trầm (bass), điều gần như không xuất hiện trong opera seria. Nhà soạn nhạc opera tiêu biểu thời kỳ này là Giovanni Pergolesi (1710 - 1736).

Tại Pháp, opera hài hước được gọi là opéra-comique. Nó tiếp thu và phát triển từ opera buffa Ý nhưng có thay đổi đáng kể nhất là không sử dụng recitative và thay vào đó là hình thức đối thoại. Nhà hát Opéra-Comique tại Paris chuyên biểu diễn thể loại này.

Tại Đức, từ giữa thế kỉ thứ 18 hình thành thể loại singspiel (hát – diễn). So với opera buffa hay opera-comique thì singspiel có nhiều đối thoại hơn và mang nhiều âm hưởng của các bài hát Đức (lied) và ảnh hưởng từ hài kịch dân gian Đức.

Một trong những nhà cải cách opera quan trọng nhất thời kỳ này là Christoph Willibald Gluck (1714-1787), người viết phần lớn các vở opera có ảnh hưởng ở Vienna và Paris từ năm 1764 tới năm 1779. Trong opera của mình, Gluck chuyên tâm vào thế giới nội tâm của nhân vật và buộc âm nhạc phục vụ cho tính kịch. Gluck cũng là người đầu tiên đưa một số giai điệu của opera vào trong phần overture, điều này giúp cho overture trở thành phần dự báo và giúp cho thính giả nắm được chủ đề cơ bản của vở opera. Opera ở thời kỳ Cổ điển lên đến đỉnh cao trong các tác phẩm sân khấu của Mozart mà trong đó, mọi khía cạnh thanh nhạc và khí nhạc đều góp phần vào sự phát triển cốt truyện và mô tả tính cách nhân vật. Mozart là tác giả của hơn 20 vở opera, trong đó có nhiều vở là kiệt tác.

Nguồn:

  • nhaccodien.info - Lê Thanh Huyền dịch
  • tiasang.com.vn – Ngọc Anh tồng hợp
  • wikipedia.org