Dân ca ví, giặm - nghệ thuật dân ca của Nghệ An và Hà Tĩnh

Dân ca ví, giặm - nghệ thuật dân ca của Nghệ An và Hà Tĩnh

Dân ca ví giặm Nghệ Tĩnh là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân ca chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của người dân 2 tỉnh Nghệ AnHà Tĩnh thuộc miền Trung Việt Nam. Dân ca ví giặm (cũng viết là dặm) tại Nghệ Tĩnh là một di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại tại kỳ họp thứ 9 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ngày 27/11/2014 tại Paris (Pháp). Loại hình nghệ thuật này phổ biến trong đời sống của các cộng đồng xứ Nghệ, được hát trong hầu hết mọi hoạt động đời thường, từ ru con, dệt vải, trồng lúa... Lời ca của dân ca ví, giặm ca ngợi những giá trị sâu sắc và truyền thống như sự tôn trọng với các bậc cha mẹ, lòng chung thủy, tận tụy vì người khác cũng như ngợi ca đức tính thật thà và cách cư xử tử tế giữa con người với con người.

 

Hát ví

Hát ví thường là hát tự do, không có tiết tấu từng khuôn nhịp, người hát có thể co giãn một cách ngẫu hứng. Âm điệu cao thấp ngắn dài có khi còn tuỳ thuộc vào lời thơ (ca từ) bằng hay trắc, ít từ hay nhiều từ. Ví thuộc thể ngâm vĩnh, bằng phương pháp phổ thơ dân tộc (lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể...)

Tính biểu cảm của hát ví tuỳ vào môi trường hoàn cảnh, không gian thời gian và tâm tính của người hát. Âm vực của ví thường không quá một quãng 8. Tình điệu ví nghe trang trải mênh mang sâu lắng, bâng khuâng xao xuyến, tha thiết ân tình. Tuy vậy, vẫn có loại ví ghẹo và ví mục đồng nghe dí dỏm hài hước, nghịch ngợm hồn nhiên tươi trẻ.

Hát ví hát giao duyên nam nữ được phổ biến vùng Nghệ Tĩnh, các thể kỷ trước dùng để trao đổi tình cảm giữa đôi trai gái. Vào các đêm trăng sáng thường đi ngắm trăng. Hát theo lối tường thuật ngẫu hứng một câu chuyện nào đó trong quá trình lao động và nông nhàn, trong lối sống thường nhật lâu dần được dân gian hóa

Thể hát ví: Ví có nhiều điệu như: ví đò đưa, ví phường vải, ví phường cấy, ví phường võng, ví phường chè, ví đồng ruộng, ví trèo non, ví mục đồng, ví chuỗi, ví ghẹo, ví giận thương (giận mà thương),...

 

Hát giặm (dặm)

Giặm là thể hát nói, bằng thơ ngụ ngôn thơ/vè 5 chữ, nói cách khác thì giặm là thơ ngụ ngôn/ về nhật trình được tuyền luật hoá. Khác với ví, giặm là thể hát có tiết tấu rõ ràng, có phách mạnh phách nhẹ, có nhịp nội nhịp ngoại. Thông thường một bài giặm có nhiều khổ, mỗi khổ có 5 câu (câu 5 thường điệp lại câu 4), mỗi câu có 5 từ (không kể phụ âm đệm). Tuy vậy, cũng có những bài giặm/ vè không phân khổ rõ ràng, mà cứ hát một lèo, có khi đến hàng chục hàng trăm câu, và mỗi câu cũng không nhất nhất 5 chữ mà có thể 4 hoặc 6, 7 chữ (do lời thơ biến thể).

Giặm rất giàu tính tự sự, trữ tình, kể lể khuyên răn, phân trần bày giải. Cũng có loại giặm dí dỏm khôi hài, châm biếm trào lộng và có cả giặm trữ tình giao duyên.

Hát giặm là một thể loại hát nói bằng thơ ngụ ngôn (thơ) về âm nhạc đi theo thường là phách. "Giặm" có nghĩa là ghép vào, xen kẽ với nhau, thường 2 hay 3 hoặc một nhóm người hát đối diện nhau hát.

Các làn điệu của hát giặm như: giặm xẩm, giặm nối, giặm vè, giặm điên, giặm cửa quyền, giặm kể. Có các tiết tấu phách mạnh, phách nhẹ, những nhịp trong và ngoài. Các thể loại này rất giàu tính tự sự, kể lể, khuyên răn, phân trần, giãi bày,... thuộc dạng thể thơ năm chữ, cách gieo vần, ngắt nhịp,...

 

Một số tác phẩm ví, giặm

  • Ví giận thương
  • Ví ghẹo
  • Ví phường vải
  • Ví đò đưa
  • Hát giặm kể
  • thơ
  • Xay lúa
  • Mời trầu
  • Đại thạch kỳ huê
  • Ô lục soạn

Nguồn: wikipedia

 

Vẻ đẹp của Ví, Giặm Nghệ Tĩnh

Vào lúc 17 giờ ngày 27-11, tại Pa-ri, thủ đô Cộng hòa Pháp, trong ngày làm việc thứ 4, kỳ họp thứ 9 của Ủy ban liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO với đại diện của 129 nước, Ví, Giặm Nghệ Tĩnh đã được vinh danh là "Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại". Từ đây, con người, lịch sử và văn hóa Việt Nam có thêm cơ hội tỏa sáng đến khắp mọi miền thế giới.

Tiết mục hát ví phường nón tại Liên hoan dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh lần thứ hai, năm 2013. Ảnh: ÐĂNG KHOA

Có lẽ, hơn tất cả các loại hình dân ca khác, Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được bắt nguồn một cách trực tiếp và diễn xướng trong chính môi trường lao động sản xuất của những thợ rừng, thợ gặt, thợ cấy, của những người chăn tằm, dệt vải; của những ngư dân, những người ngược nguồn xuôi bè trên sông Lam, sông La.

Ngay cả cái tên hát ví, hát giặm cũng nói lên cái gốc gác ấy.

, có người cho là ví von, có người cho là vói, vọi tức là có khoảng cách trên sông, trên đồng... khi hát, có người cho là với, tức là hát tập thể, có người cho "ví" là động từ, chỉ hành động hát...

Theo tôi, các ý kiến ấy đều có lý, diễn tả được từng mặt bản chất của hát ví. Có thể hiểu rằng, "hát ví", hay "ví" có phần lời chủ yếu là lục bát hoặc lục bát biến thể. Âm nhạc đa dạng, phóng khoáng về mặt làn điệu; âm hưởng chủ yếu là trữ tình. Ví, có nhiều ví von, so sánh, nhiều ẩn dụ, tức là tìm cách diễn đạt văn hoa, có nhiều ngụ ý hơn tiếng nói ngày thường. Hát ví không chủ yếu dựa vào bài bản sẵn có mà vì hát đối đáp, phải "đáp trả" ngay nên người hát tự sáng tác là chủ yếu (có thể trong nhóm có người chuyên đặt lời).

Giặm (tiếng Việt đầu thế kỷ 20), nghĩa đen là giắm, từ dùng chỉ khi cấy lúa, trồng khoai người ta Giặm (còn gọi là dặm) vào những cây mới khi cây cũ bị chết, bị trâu bò ăn, hay là dặm trước để đề phòng. Giặm có phần lời là thể thơ ngũ ngôn (5 chữ), một khổ 4 câu, câu thứ 5 lặp lại câu thứ 4 có thể nguyên vẹn hoặc thay đổi một vài từ. Giặm, cũng có nghĩa là đặt vần thông khổ này sang khổ khác, câu này sang câu khác, thậm chí vần trong câu. Ví, Giặm do đó có rất nhiều vần. Giặm thường dựa trên những sáng tác có sẵn, có khúc thức âm nhạc chặt chẽ; thiên về tính tự sự; mộc mạc, lời ít được trau chuốt hơn ví.

Một đặc điểm thứ hai của Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là tính phổ biến rộng khắp. Có thể 260 làng hay một con số tương đương nào đó nổi bật hơn nhưng hầu như tất cả các làng xã Nghệ Tĩnh đều yêu và đều hát Ví, Giặm.

Vẻ đẹp và giá trị của Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được thể hiện ở một số phương diện nổi bật sau đây:

 

Bảo tàng của tiếng Nghệ, tiếng Việt cổ

Từ, ngữ trong tiếng Nghệ vốn rất phong phú và giàu tính biểu cảm. Ngày nay, tiếng Nghệ được phổ thông hóa nhiều. Nhưng người dân Nghệ nói chung vốn yêu tiếng nói của mình, rất ghét những ai quên đi tiếng nói quê nhà (Chém cha không bằng pha tiếng). Người Nghệ đi xa vẫn thèm được nghe, được nói tiếng nói quê hương; bình thường mỗi người một giọng nhưng gặp nhau là sung sướng "sổ" tiếng Nghệ "trọ trẹ" ríu rít như chim, tự lấy làm một điều sung sướng!

Trong đời sống, dù có phai nhạt; thì trong Ví, Giặm vẫn lưu giữ một kho từ ngữ địa phương vô cùng phong phú và đầy tính biểu cảm.

Tiếng Nghệ Tĩnh biểu cảm, đa nghĩa, giàu thanh điệu, đó là một cơ sở của thơ ca. Chỉ một từ Choa rứa ("choa" là "chúng tao" nhưng thường dùng chỉ số ít là "tao") cũng cho thấy tính cách kiên định, thẳng thắn (hay cùn) của người xứ Nghệ. Từ nỏ là "không" nhưng trong giao tình đôi lứa được dùng nhiều với nghĩa ngược lại, ngầm ý đồng tình, rất tinh tế...

Qua những từ ngữ ấy, thấy được lịch sử, đặc điểm địa lý, phong tục, tính cách con người ở một vùng đất.

 

Nơi lưu giữ, truyền nối lòng yêu nước và nghĩa tình, đạo lý

Xứ Nghệ xưa là phên dậu phía nam của Tổ quốc, do đó đòi hỏi con người nơi đây phải kiên cường, dũng cảm và lòng trung thành tuyệt đối. Ðiều kiện tự nhiên và xã hội khắc nghiệt đòi hỏi con người phải đoàn kết, son sắt thủy chung để vượt qua hoạn nạn. Những phẩm tính ấy được thể hiện qua Ví, Giặm và Ví, Giặm ngược lại lại làm giàu thêm những phẩm tính ấy.

Trong mọi tình cảm, đều chan chứa lòng yêu quê hương đất nước. Vinh là vì nước. Nhục là phản nước, rất rạch ròi như nhìn thấy sự trong đục của dòng sông:

Ai biết nước sông Lam răng

là trong là đục

Thì biết sống cuộc đời răng

là nhục là vinh

Thuyền em lên thác xuống

ghềnh

Nước non là nghĩa, là tình

ai ơi...

Ví, Giặm đề cao giá trị làm người, nhắc nhau bổn phận, nhắc giữ đạo lý luân thường: Muốn cho tình nghĩa lâu dài / Ðừng coi của trọng hơn người mà hư; Khăn nâu áo vải là thường, Cốt trau cho được luân thường là hơn... Ví, Giặm sâu sắc tình mẹ con: Trời mưa chiếu ướt đằm đằm/ Chỗ ướt mẹ nằm, con ngủ nơi khô; Mấy lâu buôn bán nuôi con/ Áo rách mặc áo, vai mòn mặt vai...; tình con đối với mẹ: Mỗi đêm thắp một đèn trời/ Cầu cho cha mẹ ở đời với con; với đồng bào, lối xóm: Xung quanh những họ cùng hàng/ Coi nhau như ngọc như vàng mới nên...

Tình yêu nam nữ chiếm một dung lượng lớn nhất, đặc sắc nhất trong Ví, Giặm. Dân ca vùng này có câu giận, câu hờn nhưng câu nhớ, câu thương, câu tình, câu nghĩa vẫn nhiều hơn cả Bao giờ Ngàn Hống hết cây/ Sông Rum hết nước thì đó với đây mới hết tình.

 

Nghệ thuật cao diệu của ngôn từ

Tiếng Nghệ giàu biểu cảm, người Nghệ nặng tình và tài hoa, và là vùng đất học nên trong Ví, Giặm có rất nhiều câu thơ trở nên kinh điển sánh ngang với những câu hay nhất trong văn chương bác học. Cho nên sĩ tử đất Nghệ Tĩnh trước khi đi thi cũng đã mấy lần tập dượt văn sách với phường vải, để chị em kiểm tra:

Ðồn đây có gái hát tài

Ðể ta đối địch một vài trống

canh

Dẫu thua dẫu được cũng

đành

Bõ công đèn sách học hành

bấy lâu...

Ðọc những câu như Hồng Sơn cao ngất mấy trùng/ Lam Giang mấy trượng thì lòng mấy nhiêu; Ra về dặn nước dặn non/ Dặn rằng một chữ vuông tròn phu thê... ta không thấy khác với những câu Kiều và hiểu vì sao Nghệ Tĩnh lại có Truyện Kiều và Nguyễn Du.

Ta thấy sự hòa quyện nhuần nhị giữa con người với thiên nhiên, sự làm chủ thiên nhiên qua cách chơi chữ tài tình, sống động hơn hẳn trong văn chương bác học: Vườn hoa quả thị má hồng/ Mận mơ quấn quýt đèo bòng cho cam; (có các loại hoa quả sản vật quê nhà); Giường đông thiếp bắc sẵn sàng/ Buồng tây mở khóa đợi chàng nam nhi (bốn phương đông tây nam bắc). Cô Xuân đi chợ Hạ/ Mua cá thu về chợ hãy còn đông (bốn mùa). Nghệ thuật chơi chữ và nói lái cũng chỉ có thể có trong tiếng Nghệ: Anh bứt cỏ ngựa ngồi đầu cựa ngọ/ Kẻ bắn con nây ngồi cội (gốc) cây non (cỏ ngựa là cửa ngõ; con nây (nai) là cây non). Có vô vàn thí dụ như thế. Nói đúng hơn, trong mỗi câu hát đều có sự đặc sắc.

Sự vinh danh của UNESCO càng làm ta thêm yêu quý những di sản văn hóa của ta, không chỉ Ví, Giặm càng thấy văn hóa là mục tiêu, động lực của phát triển. Cha ông đã để lại một kho báu vô tận. Chúng ta không chỉ giữ gìn, cần phát huy chúng, làm cho cuộc sống ngày một tươi đẹp, trong đó, đạo lý và tình người là trọng.

 

NGUYỄN SĨ ÐẠI
Nguồn: nhandan.org.vn